Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài

Chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài

 Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Luật Trọng tài thương mại 2010: “Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan.”

Theo đó, hai chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài là Tòa án và Hội đồng trọng tài. Bên cạnh đó, cần phải phân biệt rõ, Hội đồng trọng tài ở đây là một hội đồng chính thức đã được lập ra và có thẩm quyền đối với một vụ tranh chấp nhất định.

Khi một trong các bên nộp hồ sơ yêu cầu giải quyết một vụ tranh chấp bằng tố tụng trọng tài và có nhu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, bên đó có quyền lựa chọn nộp đơn ra Tòa án hoặc làm đơn gửi đến Hội đồng trọng tài hoặc thậm chí có thể gửi đơn đến cả hai cơ quan nêu trên yêu cầu ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.

Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Chủ thể chịu tác động của biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng trọng tài ban hành

Tố tụng trọng tài chỉ cho phép Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp. Mà căn cứ theo khoản 3 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì các bên tranh chấp là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị đơn. Theo đó, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài chỉ được đưa ra yêu cầu các bên trong vụ án tranh chấp thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ cụ thể mà không được đưa ra đối với bất kỳ bên thứ ba nào khác. Vì vậy, thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài hẹp hơn nhiều so với tòa án về mặt chủ thể chịu tác động. Nếu hành vi yêu cầu phải được thực hiện bởi một bên thứ ba khác hoặc tài sản tranh chấp đang thuộc quyền quản lý của một bên thứ ba khác, Hội đồng trọng tài sẽ không có thẩm quyền ban hành trong trường hợp này.

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền áp dụng của Hội đồng trọng tài

 Thứ nhất, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp. Hội đồng trọng tài, có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp này khi hội tụ đầy đủ các điều kiện:

(i) đối tượng mà đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải là tài sản đang có tranh chấp;

(ii) người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản hoặc người khác đang có hành vi làm thay đổi hiện trạng của tài sản như phá hủy, tháo dỡ, lắp ghép xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản;

(iii) người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm tài chính. Đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này phải đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh bên đang chiếm hữu, giữ tài sản đang có hành vi làm thay đổi hiện trạng tài sản. Hội đồng trọng tài hoặc Thẩm phán phải xem xét các yêu cầu, các căn cứ mà đương sự đã đưa ra để quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp đó hay không.

Thứ hai, cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài. Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, nếu một bên trong tranh chấp thấy bên còn lại thực hiện hành vi mà hành vi đó sẽ có tác động gây bất lợi cho quá trình tố tụng thì đương sự bên kia có quyền yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án áp dụng biện pháp cấm hoặc buộc bên tranh chấp thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định.

Thứ ba, Kê biên tài sản đang tranh chấp. Kê biên tài sản chỉ áp dụng cho trường hợp người chiếm giữ tài sản đang có tranh chấp có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản đang có tranh chấp gây khó khăn trong việc xem xét, giải quyết của Hội đồng trọng tài hoặc thi hành án sau này, thì theo yêu cầu của một trong các bên đương sự Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp này. Tài sản kê biên có thể thu giữ bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án.

Thứ tư, yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh chấp. Có những tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến tranh chấp, nếu không xử lý kịp thời sẽ làm hư hỏng, mất giá trị, giảm giá trị hoặc làm biến dạng tài sản. Bởi vậy theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời  “bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh chấp” thì Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án sẽ áp dụng biện pháp này khi các bên đương sự đã đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này.

Thứ năm, yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên. Để kịp thời xử lý những nhu cầu cấp bách của đương sự thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp, Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án có thể áp dụng BPKCTT về việc trả tiền giữa các bên tranh chấp khi bên yêu cầu đã chứng minh yêu cầu áp dụng biện pháp này là chính đáng, cần thiết.

Thứ sáu, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

Trong nhiều trường hợp một bên tranh chấp có thể có hành vi bán, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho… tài sản đang có tranh chấp trong thời gian tố tụng trọng tài, hành vi này đe dọa gây ra những thiệt hại cho đương sự khác hoặc gây khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp, xử lý tài sản tranh chấp. Bởi vậy, khi có yêu cầu của một trong các bên đương sự áp dụng biện pháp khẩn cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang có tranh chấp thì Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án phải áp dụng biện pháp này.

 


Bài viết liên quan