Các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại?

Các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại?

Trọng tài thương mại là gì?

Trọng tài thương mại là cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Trong giao dịch dân sự thường ngày, nhất là các giao dịch kinh tế thương mại, việc phát sinh tranh chấp là điều không thể tránh khỏi và giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách nhanh chóng, hiệu quả, công bằng là góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư, tạo sự yên tâm cho các bên ngay từ khi mới hình thành quan hệ và cả khi có phát sinh tranh chấp.

Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định: “Trọng tài Thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Đây được coi là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (ADR) hữu hiệu được sử dụng phổ biến bởi các doanh nghiệp hiện nay.

Điều kiện để được giải quyết bằng trọng tài thương mại

Nếu điều kiện cần để các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài là phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài và chủ thể tranh chấp được phép thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì điều kiện đủ là giữa các bên tồn tại một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực pháp luật. Bởi vậy mà thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp. Như vậy, có 2 điều kiện để một tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại

  • Tranh chấp phát sinh thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại
  • Phải có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không vô hiệu, không thuộc các trường hợp không thực hiện được.

Các loại tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được các thương nhân tin tưởng lựa chọn để giải quyết tranh chấp giữa các bên ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, không phải tranh chấp nào cũng được giải quyết bằng trọng tài thương mại.

Với tư cách là thiết chế giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp thương mại gồm: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.

Nhóm thứ nhất: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại

Đối với nhóm này đòi hỏi các bên tranh chấp đều có hoạt động thương mại với phạm vi khái niệm “hoạt động thương mại” được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 bao gồm các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác có mục đích sinh lợi.

Tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại rất dễ nhầm lẫn với các tranh chấp dân sự thông trường trong cùng lĩnh vực. Sự khác biệt với tranh chấp dân sự thông thường trong cùng lĩnh vực thể hiện ở hai yếu tố:

  • Chủ thể: đối với tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, các bên tranh chấp đều là các thương nhân, các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh. Còn đối với tranh chấp dân sự, chủ thể tham gia không bắt buộc đăng ký kinh doanh.
  • Mục đích tham gia giao dịch: đối với tranh chấp từ hoạt động thương mại các bên tranh chấp đều có mục đích tìm kiếm lợi nhuận, còn đối với tranh chấp dân sự không cần yêu cầu các bên phải có mục đích lợi nhuận.

Nhóm thứ hai: tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại

Đối với nhóm loại việc này, đòi hỏi chỉ cần một bên tranh chấp thực hiện hoạt động thương mại với mục đích sinh lời còn bên còn lại có thể tham gia quan hệ này với mục đích khác như sở hữu, tiêu dùng…Mặc dù vậy, quy định về “tranh chấp phát sinh trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại” vẫn còn tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau.

  • Cách hiểu thứ nhất, với quy định này chỉ cần một bên trong quan hệ tranh chấp có hoạt động thương mại và lĩnh vực phát sinh tranh chấp là bất cứ lĩnh vực nào sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Ví dụ, tranh chấp phát sinh từ thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh giữa người sử dụng lao động với người lao động, trong đóngười sử dụng lao động là một doanh nghiệp – hay nói cách khác là thương nhân, có hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động. Bộ luật lao động năm 2019 không trao cho trọng tài thương mại thẩm quyền giải quyết tranh chấplao động cá nhân mà trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp này cho các chủ thể khác như: hòa giải viên lao động, hội đồng trọng tài lao động, tòa án nhân dân. Tuy nhiên, theo cách hiểu thứ nhất thì tranh chấp trong quan hệ lao động đề cập trên sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
  • Cáchhiểu thứ hai, chỉ cần một bên chủ thể có hoạt động thương mại và lĩnh vực phát sinh tranh chấp phải là các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại – là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận mà không phải là các tranh chấp phát sinh từ lĩnh vực lao động hay hôn nhân, gia đình…Đây là cách hiểu phổ biến vì cho rằng cụm từ “hoạt động thương mại” đã chỉ rõ điều đó là chỉ các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại.

Nhóm thứ ba: tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.

Đối với nhóm loại việc này thì tiêu chí thực hiện hoạt động thương mại không còn được đặt ra mà chỉ cần pháp luật chuyên ngành cho phép các bên tham gia quan hệ pháp luật được lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp thì vụ việc đương nhiên thuộc thẩm quyền của trọng tài. Ví dụ tại Điều 338 Bộ luật hàng hải năm 2015 quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp hàng hải: “Các bên liên quan có thể giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng, thỏa thuận hoặc khởi kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án có thẩm quyền”.

Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã quy định phạm vi loại việc mở rộng đáng kể phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.

 


Bài viết liên quan